Tiếp đón báo chí truyền thông trao đổi thông tin về Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam
(LVH) - Ngày 16/10/2014, đại diện lãnh đạo Bộ VHTTDL, Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam đã có buổi tiếp đón và trao đổi một số thông tin về “Làng” với phóng viên báo chí, truyền thông tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội).
Buổi trao đổi có sự tham dự của đồng chí Hoàng Đức Hậu, Vụ trưởng Vụ Văn hóa Dân tộc (Bộ VHTTDL) đại diện lãnh đạo Bộ VHTTDL; các đồng chí Lâm Văn Khang, Nguyễn Đình Lợi, Phó Trưởng ban Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam; một số phóng viên báo chí truyền thông và cán bộ của Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam.
.jpg) |
Quang cảnh buổi trao đổi, làm việc
|
Tại buổi trao đổi, đồng chí Lâm Văn Khang, Phó Trưởng ban Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam nêu rõ một vài thông tin chung về Dự án Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, một số đánh giá, nhìn nhận quá trình hoạt động đầu tư xây dựng, khai thác, vận hành cục bộ “Ngôi nhà chung” từ khi khai trương (9/2010) đến nay (10/2014), những thuận lợi, khó khăn, một số vấn đề về công tác quy hoạch, công tác đầu tư xây dựng, công tác tổ chức các hoạt động, sự kiện, vấn đề xúc tiến đầu tư… tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam.
Theo Quyết định số 1689/QĐ-TTg ngày 15/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, “Làng” có tổng diện tích 1.544ha, thuộc ranh giới hành chính của các huyện Thạch Thất, Ba Vì và thị xã Sơn Tây (Thành phố Hà Nội), có 07 khu chức năng (trong đó chỉ có 02 khu chức năng là Khu các làng dân tộc và Hạ tầng kỹ thuật chung sử dụng nguồn vốn Ngân sách Nhà nước đề đầu tư, xây dựng) với mục tiêu xây dựng và phát triển Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam thành trung tâm hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch mang tính quốc gia, nơi tập trung tái hiện, gìn giữ, phát huy và khai thác giá trị các di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc Việt Nam, tăng cường tình đoàn kết, sự hiểu biết lẫn nhau, giáo dục lòng tự hào dân tộc và tình yêu quê hương đất nước của công dân Việt Nam…; phục vụ nhu cầu tham quan, du lịch và nghiên cứu của nhân dân trong nước và khách quốc tế.
Được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bộ VHTTDL, vấn đề quy hoạch, các kế hoạch, cơ chế chính sách được ban hành, các dự án được chuẩn bị đầu tư kỹ lưỡng, đúng quy định. Tuy nhiên, thời gian qua, tình hình kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều biến đổi, khó khăn, việc kêu gọi đầu tư không thuận lợi, ngân sách Nhà nước cấp hạn chế, chưa đáp ứng được kế hoạch, yêu cầu. Mặt khác, việc tổ chức hoạt động mô hình Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam mang tính đặc thù, chưa có tiền lệ, cần có sự phối hợp hỗ trợ của các Ban, Bộ, Ngành, đặc biệt là các địa phương và chính chủ thể văn hóa - đồng bào 54 dân tộc Việt Nam.
.jpg) |
Một số phóng viên báo chí, truyền thông đã đi thăm Làng, "khảo sát" thực tế về các làng dân tộc tại Làng VHDL các DTVN
|
Đánh giá hiệu quả đầu tư và quá trình khai thác hoạt động tại “Ngôi nhà chung”, có thể nói, trong những năm qua (từ năm 2010 đến nay), đã đáp ứng được mục tiêu mà dự án đã đề ra, đó là tất cả các hoạt động từ quá trình khảo sát, đầu tư xây dựng đến khai thác tổ chức các hoạt động đều có sự tham gia sâu sắc của chính chủ thể văn hóa dân tộc - 54 cộng đồng dân tộc Việt Nam.
 |
Rất nhiều Hội nghị được tổ chức ở cả Trung ương, địa phương, xin ý kiến đóng góp của địa phương, đại diện cộng đồng các dân tộc về việc xây dựng các công trình dân tộc tại Làng (Ảnh: Hội nghị xin ý kiến đóng góp của địa phương, đại diện cộng đồng các dân tộc tại tỉnh Sóc Trăng về xây dựng một số làng dân tộc, ngày 1/11/2006. Ảnh: Tư liệu BQL)
|
Đặc biệt, quá trình đầu tư xây dựng được xác định theo quy trình riêng, được tổ chức bài bản, khoa học với cách thức “đi từ cộng đồng - đến với cộng đồng và cùng cộng đồng”. Việc xây dựng những công trình kiến trúc văn hóa của cộng đồng dân tộc, mang tính đặc thù (với hơn 300 công trình đã được xây dựng tại “Làng”), cộng đồng các dân tộc “tham gia rất sâu”, từ việc cung cấp tư liệu thực tế, góp ý kiến tham vấn thiết kế, thậm chí, có rất nhiều công trình nhà dân tộc có sự tham gia trực tiếp xây dựng của các nghệ nhân, những người thợ lành nghề của dân tộc đó. Đến nay, cơ bản 95% hạ tầng kỹ thuật chung đã hoàn thành. Khu các làng dân tộc cơ bản hoàn thành không gian văn hóa tiêu biểu của 54 dân tộc… Hiện nay đang tiếp tục hoàn thiện không gian, cảnh quan…
 |
Nghệ nhân Lý Lết (bên phải) cùng với một số nghệ nhân, những người thợ lành nghề của dân tộc Khmer (Nam Bộ) được chọn tham gia trực tiếp vào thi công trang trí nội thất công trình chùa Khmer, đang tinh chỉnh trực tiếp tượng Phật Sây-a, bức tượng Phật lớn nhất trong chánh điện Khmer tại Làng VHDL các DTVN
|
Khi công trình hoàn thành, bước đầu khai thác cục bộ thì chính cộng đồng các dân tộc tham gia vận hành khai thác, tổ chức tái hiện các không gian sinh hoạt, văn hóa, tái hiện lễ hội, giới thiệu nét đặc trưng văn hóa truyền thống dân tộc mình tại chính ngôi nhà của mình tại Làng, góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc tại “Ngôi nhà chung”. Cùng với việc huy động các cộng đồng dân tộc về Làng tham gia, tổ chức các hoạt động của chính cộng đồng dân tộc, những năm qua ngoài việc định kỳ tổ chức các hoạt động thường niên, “Làng” còn tổ chức các sự kiện, hoạt động bám theo đời sống chính trị, thời sự của đất nước, góp phần hiện thực hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước… Để đạt hiệu quả tốt nhất, theo sự chỉ đạo của Bộ VHTTDL, Ban Quản lý “Làng” đã xây dựng Quy chế phối hợp với các địa phương, các Ban, Bộ, Ngành Trung ương và các cơ quan đơn vị liên quan để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thực hiện.

|
Các bô lão tại huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi về "Làng" tổ chức tái hiện Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa tại "Làng", nhân dịp theo dòng sự kiện cả nước sôi nổi các hoạt động hướng về biển đảo quê hương, tháng 6/2014 vừa qua
|
Về vấn đề khai thác du lịch, từ khi khai trương (9/2010) đến nay, với quan điểm đầu tư đến đâu, khai thác đến đó nên trong thời gian qua, Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam đã tổ chức đón cộng đồng các dân tộc Việt Nam về hoạt động luân phiên và tham gia vào các hoạt động sự kiện của “Làng”, hàng năm, số cộng đồng dân tộc được huy động tăng lên. Năm 2010, huy động 12 cộng đồng với trên 300 lượt đồng bào về tham dự thì năm 2011 là 33 cộng đồng với gần 1200 lượt… và 6 tháng đầu năm 2014 đã huy động 21 cộng đồng dân tộc với gần 500 lượt…
Bên cạnh đó, lượng du khách tham quan hàng năm đều tăng. Tính đến năm 2014, đã có khoảng 250 nghìn lượt người đến tham quan Làng Văn hóa, trong đó 6 tháng đầu năm 2014, số khách đăng ký thuyết minh là hơn 158 nghìn lượt… Hiện nay, Ban Quản lý “Làng” đang xây dựng đề án khai thác du lịch, trong đó, sẽ chuẩn bị một số điều kiện thiết yếu về dịch vụ, nhu cầu, chương trình tham quan, cơ sở lưu trú, phối hợp với một số công ty lữ hành, du lịch, hãng xe bus Hà Nội, tổ chức bán vé …, để nhằm khai thác tốt hơn hiệu quả du lịch - văn hóa, đáp ứng được yêu cầu tham quan của du khách khi tới với "Ngôi nhà chung".
Về vấn đề duy tu bảo dưỡng các công trình nhà dân tộc, đặc biệt là những công trình đặc thù chịu ảnh hưởng rất lớn của thời tiết, điều kiện khí hậu là vấn đề Ban Quản lý “Làng” luôn đặc biệt quan tâm, trong đó, Ban Quản lý đã xây dựng quy chế quy định về duy tu bảo dưỡng các công trình, tổ chức bộ máy chuyên trách làm công tác này và luôn kiểm tra, khảo sát và xây dựng kế hoạch duy tu bảo dưỡng, đặc biệt ưu tiên những công trình nhà dân tộc có chất liệu “tranh, tre, nứa lá”…
Về vấn đề xúc tiến đầu tư, việc thu hút các nguồn vốn ngoài NSNN vào đầu tư tại “Làng” còn gặp nhiều khó khăn, mặc dù Ban Quản lý đã chủ động đề xuất xây dựng điều chỉnh Quy hoạch chung của "Làng" theo hướng tăng tính hấp dẫn đầu tư, tái cơ cấu các khu chức năng, tham gia các Hội nghị xúc tiến đầu tư, mời các đại diện ngoại giao của nước ngoài tại Việt Nam, đề nghị phối hợp quảng bá, xúc tiến, gặp gỡ các nhà đầu tư lớn quan tâm… Bên cạnh đó, Dự án Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam có tính đặc thù cao, khó thu hút nguồn vốn xã hội hóa,…
H.Huyền