Các dân tộc theo nhóm ngôn ngữ, nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me
1. Dân tộc Ba-na
Dân tộc Ba-na phân bố tập trung ở vùng thung lũng sông BLa thuộc tỉnh Kon Tum, ngoài ra còn ở các tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc, Bình Định, Phú Yên. Dân tộc Ba-na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên, đã kiến lập nên nền văn hoá lâu đời độc đáo ở đây.
Kinh tế chủ yếu của người Ba-na là làm nương rẫy và ruộng khô, trồng trọt ngô, lúa và các loại hoa màu. Cùng với nông nghiệp là chăn nuôi, các nghề thủ công như dệt vải, nghề rèn, nghề gốm và đan lát cũng thịnh hành.
Dân cư sống thành buôn làng gọi là Plây, rải rác trên các sườn đồi, núi có suối nước; quanh Plây có rào gỗ bao bọc, mở cổng ra vào, mỗi Plây thường có 30 - 40 nóc nhà, gọi là Nam, theo kiểu nhà sàn; giữa Plây có một nhà công cộng gọi là nhà Rông, là trung tâm của các sinh hoạt chính trị, văn hoá, phong tục, nghi lễ của mỗi Plây. Dân tộc Ba-na có bản sắc văn hoá dân tộc độc đáo và phong phú với nhiều biểu hiện truyền thống, chẳng hạn: quyền thừa kế tài sản bình đẳng giữa các con. Trai gái tự do tìm hiểu trong hôn nhân, khi lập gia đình, vợ chồng luân phiên sinh sống ở cả nhà trai và nhà gái, dựng nhà riêng khi sinh con đầu lòng; trẻ em được nuông chiều, mọi thành viên trong gia đình bình đẳng, thuận hoà. Về văn hoá phục sức, xưa kia người Ba-na có tục "cà răng căng tai", đeo nhiều vòng trang sức rực rỡ; đàn ông đóng khố cởi trần, đàn bà lấy vải cuốn làm váy và áo không tay. Trong ngày hội áo váy đều sặc sỡ hơn ngày thường. Đàn ông thường đeo gươm dài có vỏ đẹp hay mang ná với nhiều ống tên bao quanh thắt lưng.
Người Ba-na thờ nhiều thần linh, mỗi vị có tên riêng. Người chết hoá thành ma, lúc đầu ma ở mộ và sau lễ "bỏ mả", ma về với tổ tiên, vĩnh biệt người sống. Sinh hoạt văn hoá dân gian của người Ba-na rất phong phú, nhiều làn điệu dân ca, nhiều điệu múa trình diễn trong các hội lễ và nghi lễ tôn giáo; nhạc cụ đa dạng, gồm những bộ cồng chiêng (đúc bằng đồng), những đàn Tơ rưng, Brọ, Klông pút, Kơ ni, Khinh Khung,... và nhiều loại kèn. Nét kiến trúc biểu hiện là ngôi nhà Rông và tượng nhà Mồ bằng gỗ. Lễ hội đâm trâu là lễ hội tiêu biểu nhất của dân tộc Ba-na cũng như các dân tộc khác sinh sống ở Tây Nguyên.
2. Dân tộc Brâu
Dân tộc Brâu sinh sống tập trung Đăk Mế xã Pờ Y, huyện Ngọc Hồi và một số ở huyện Đắc Tô, tỉnh Kon Tum. Họ có quan hệ gần gũi về tiếng nói với các nhóm Ca Dong, Xơ Đăng. Kinh tế chủ yếu là làm nương rẫy: trồng lúa, ngô, sắn với kỹ thuật lạc hậu, năng suất thấp; sắn bắn, hái lượm còn chiếm vị trí quan trọng, đem lại thức ăn khá thường xuyên cho mọi gia đình, ngoài ra còn có nghề thủ công như rèn, đan lát....
Các nhóm Brâu từ xưa du canh, du cư, về sau sống thành từng làng gọi là Srúc. Nhà ở kiểu nhà sàn, mái dốc, cạnh nhà chính có nhà phụ là nơi ở của người già và cất giữ lương thực, đồ dùng. Người Brâu có tục xăm mình và cà răng, nam đóng khố, nữ quấn váy ngắn và cởi trần, thường đeo nhiều trang sức. Lễ cưới được tổ chức ở nhà gái song do nhà trai chi phí. Sau lễ kết hôn, tục ở rể được kéo dài khoảng 3-4 năm và tiếp đó là thời kỳ luân cư của đôi trai gái. Theo phong tục, người chết được đưa ra khỏi nhà và cho vào quan tài bằng thân cây khoét rỗng để ở nhà tang mới dựng gần nhà ở. Quan tài được chôn nửa chìm, nửa nổi là một đặc trưng trong tục lệ ma chay của người Brâu. Nhà mồ dựng trên mộ để chứa những tài sản được chia cho người chết. Số tài sản này đều đã bị huỷ bỏ một phần dưới hình thức bẻ gẫy, chọc thủng, làm sứt mẻ... Sinh hoạt văn hoá truyền thống là chơi cồng chiêng với các nhạc cụ như Chiêng Tha. Con gái thường chơi đàn Klông Pút làm bằng 5-7 ống lồ ô, cùng với các nhạc cụ là các làn điệu dân ca, các trò chơi như đi cà kheo, đánh phết... rất được ưa chuộng.
3. Dân tộc Bru-Vân Kiều
Dân tộc Bru-Vân Kiều sinh sống tập trung ở miền núi các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, là dân tộc sinh sống lâu đời ở ven Trường Sơn Đông. Người Bru-Vân Kiều sống chủ yếu nhờ làm rẫy và làm ruộng. Nghề hái lượm, săn bắt và đánh cá là nguồn cung cấp thức ăn quan trọng. Chăn nuôi gia súc, gia cầm trước hết cho cúng lễ sau mới là cải thiện bữa ăn. Làng bản nằm dọc theo bờ sông suối hay lưng chừng những quả đồi thấp hoặc trong thung lũng màu mỡ, giữa làng có nhà Roong (hay Rông). Nhà theo kiểu nhà sàn, bếp lửa bố trí ngay trên sàn. Nhà xếp thành hình tròn hay hình bầu dục quanh nhà Rông, ngày nay nhiều nơi có xu hướng ở nhà trệt. Người già làng có vai trò và uy tín rất lớn đối với đời sống của làng. Nam nữ thanh niên tự do yêu đương, nhà trai tổ chức cưới vợ cho con phải biếu đồ sính lễ cho nhà gái, trong đó có thanh kiếm và thường cả chiếc nồi đồng nữa; khi về nhà chồng cô dâu phải qua một số nghi lễ bắt buộc như: bắc bếp, rửa chân, ăn cơm chung với chồng.... Sau lễ cưới, đôi vợ chồng còn phải làm "lễ cưới" lần thứ 2 khi có điều kiện về kinh tế, gọi là lễ khơi, để người vợ chính thức được coi là thành viên dòng họ nhà chồng.
Người phụ nữ khi mang thai không bước qua cây nằm ngang đường. Ngày trước, đàn ông đóng khố ở trần, đàn bà mặc váy, áo không tay, mặc chui đầu. Y phục kiểu người Kinh thời nay đã trở thành phổ biến, nhưng tập quán mặc váy vẫn được bảo lưu. Người Bru-Vân Kiều chú trọng thờ cúng tổ tiên, rất tin vào các thần linh (Yang): Thần lúa, Thần Bếp Lửa, Thần Núi, Thần Đất... Ma gia đình nhà vợ cũng được con rể thờ cúng. Người Bru-Vân Kiều có nhiều truyện cổ được truyền miệng, kể về sự tích các dòng họ, nguồn gốc dân tộc..., có nhiều làn điệu dân ca và nhiều nhạc cụ như cồng, trống, chiêng, đàn và các loại kèn.
4. Dân tộc Co
Dân tộc Co cư trú chủ yếu ở huyện Trà My (Quảng Nam) và huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi). Kinh tế rẫy là nguồn sống chủ yếu, lúa rẫy là nguồn lương thực chính. Trầu không và quế của người Co nổi tiếng lâu đời. Đặc biệt quế quý và nhiều là một nguồn lợi lớn: quế rừng và quế trồng. Một số người Co ở Bồng Miêu có nghề đãi vàng. Người Co sống ở những làng bản dựng ven lưng chừng núi, ven suối, sông hay thung lũng được gọi là Plơi. Đó là một nóc nhà sàn có khi dài tới hàng trăm mét, nhà được chia làm hai phần, một nửa chạy suốt hai cầu thang hai đầu hồi gọi là Gưl, tức là nhà làng, làm nơi sinh hoạt chung, làm nơi ở cho già làng và thanh niên chưa vợ, phần còn lại gọi là Tum được chia thành từng phòng, mỗi phòng một bếp lửa, làm nơi ở cho các đôi vợ chồng và con cái, có cửa thông với Gưl. Ngày nay, các gia đình ở riêng ra trong từng ngôi nhà trệt. Người Co không biết dệt vải. Theo truyền thống, nam đóng khố, ở trần; nữ quấn váy, mặc áo cộc tay; mùa lạnh thì khoác tấm vải choàng, thích đeo trang sức, nhất là hạt cườm. Ngày nay, sắc phục chính là quần áo người Kinh, các loại vòng trang sức cũng chỉ bắt gặp thưa thớt, đơn giản. Người Co tin vào vạn vật hữu linh, thờ nhiều thần nhưng chủ yếu là thần lúa. Thanh niên nam nữ tự do tìm hiểu, cưới xin đơn giản, cô dâu về nhà chồng; trước đây chỉ được kết hôn trong cùng tộc người. Phong tục cho phép nếu vợ chết có thể lấy tiếp em hoặc chị của vợ, nhưng vợ goá không thể lấy em chồng. Người Co yêu thích âm nhạc. Họ dùng bộ chiêng 3 chiếc là phổ biến. Nhạc cụ còn có trống, các loại đàn, nhị. Múa chỉ xuất hiện trong các lễ đâm trâu. Các điệu dân ca Xru (Klu), Agiới được lưu truyền rộng rãi. Vốn truyện cổ khá phong phú, có huyền thoại, truyền thuyết, truyện ngụ ngôn... Nghệ thuật trang trí tập trung nhất ở cây cột lễ và bộ phận được gọi là laval trong lễ hội đâm trâu.
5. Dân tộc Chơ-ro
Người Chơ-ro cư trú chủ yếu ở tỉnh Đồng Nai và một số nơi khác ở các tỉnh Bình Thuận, Sông Bé (cũ), Bà Rịa-Vũng Tàu
Kinh tế trước đây làm rẫy là chính, nay phát triển làm ruộng lúa nước, chăn nuôi và một số nghề thủ công như đan lát; ngoài ra vẫn duy trì nghề hái lượm, săn bắn, thường tập trung vào thời gian nông nhàn (khoảng tháng 6-7 âm lịch).
Người Chơ-ro sống trong nhà sàn, cầu thang đặt đầu hồi nhà, ngày nay sống trong nhà trệt, đồ dùng đơn giản, hai vật dụng chiêng và ché là có giá trị nhất. Trước đây, đàn ông đóng khố, phụ nữ quấn váy, mùa lạnh khoác thêm tấm chăn. Ngày nay, đại đa số người Chơ-ro đã ăn mặc theo lối của người Kinh cùng địa phương; một số người Chơ-ro vẫn giữ tập quán cũ, thường mang theo gùi trên lưng, riêng phụ nữ thích đeo các vòng đồng, bạc và dây cườm. Việc lấy chồng, lấy vợ của người Chơ-ro tồn tại cả hai hình thức: nhà trai đi hỏi vợ hoặc nhà gái đi hỏi chồng. Hôn lễ tổ chức tại nhà gái, sau lễ thành hôn thì cư trú phía nhà vợ, sau vài năm sẽ dựng nhà ra ở riêng. Về ma chay, người Chơ-ro theo tập quán thổ táng. Mộ phần được đắp cao lên theo hình bán cầu. Trong 3 ngày đầu, người ta gọi hồn người chết về ăn cơm, sau đó là lễ "mở cửa mả" với 100 ngày cúng cơm; tài sản của người chết được chia đôi, một phần đem bỏ ở mả, phần còn lại bán lấy tiền làm ma. Tập quán dùng vàng mã đã xuất hiện trong tang lễ của người Chơ-ro. Người Chơ-ro thờ nhiều vị thần, trong đó có "Thần Rừng" và "Thần Lúa" là trọng lễ. Xã hội truyền thống Chơ-ro chưa có chữ viết, truyền bá kiến thức cho thế hệ sau theo lối truyền khẩu. Vốn văn nghệ dân gian chỉ còn một vài điệu hát đối đáp trong những dịp lễ hội, họ cất lên lời khẩn cầu thần lúa và hiện nay rất ít người biết đến. Nhạc cụ có bộ chiêng đồng 7 chiếc và các nhạc cụ làm bằng tre nứa.
6. Dân tộc Cơ-ho
Dân tộc Cơ-ho cư trú chủ yếu ở các huyện Bảo Lộc, Di Linh tỉnh Lâm Đồng và một số huyện thuộc tỉnh Đồng Nai. Về hoạt động sản xuất, trừ nhóm Xrê làm ruộng nước còn các nhóm khác làm rẫy (mir) du canh theo chu kỳ. Lúa là cây lương thực chính và là cây trồng chủ yếu, ngoài ra còn ngô, sắn, bầu, bí, mướp, đậu...Chăn nuôi theo lối thả rông. Săn bắt, đánh cá, hái lượm lâm thổ sản vẫn rất phổ biến. Người Cơ-ho sống ở trong nhà sàn dài, mọi sinh hoạt của gia đình (ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách) đều diễn ra xung quanh bếp lửa. Tổ chức gia đình theo chế độ mẫu hệ. Người đàn bà đóng vai trò chủ động trong hôn nhân; sau hôn lễ người con trai về bên nhà vợ; con cái tính theo dòng họ mẹ. Đàn ông đóng khố, phụ nữ vấn váy ngang lưng, chân quấn xà cạp, áo ngắn bó lấy thân và thích đeo đồ trang sức.
Người Cơ-ho tin rằng mọi mặt đời sống đều do các thế lực siêu nhân quyết định nên hầu như làm bất cứ việc gì, hay có chuyện gì họ cũng thờ cúng để cầu xin. Trong các nghi lễ của người Cơ-ho, những nghi lễ liên quan đến công việc làm rẫy, làm ruộng là những nghi lễ quan trọng nhất và được tiến hành thường xuyên hơn. Bàn thờ (nao) thường được đặt ở chỗ trang trọng và tôn nghiêm nhất trong nhà. Hàng năm khi mùa màng đã thu hoạch xong (thường là tháng 12 dương lịch), người Cơ-ho tổ chức ăn tết. Lễ tết kéo dài từ 7-10 ngày. Sau Tết, người ta mới được ăn lúa mới và thực hiện các công việc cần làm như làm nhà, chuyển làng... Vốn văn học nghệ thuật dân gian Cơ-ho rất phong phú. Thơ ca giàu trữ tình và đầy nhạc tính. Một số vũ khúc cổ truyền thường được diễn trong các lễ hội. Các nhạc cụ truyền thống như bộ cồng chiêng 6 chiếc, kèn ống bầu (Kơmbuat), đàn ống tre (Kơrla), trống (sơgơr),... có khả năng hoà âm với lời ca hoặc độc tấu.
7. Dân tộc Cơ-tu
Dân tộc Cơ-tu sinh sống chủ yếu ở huyện Hiên, Nam Giang tỉnh Quảng Nam và các huyện A Lưới, Phú Lộc tỉnh Thừa Thiên - Huế. Họ thuộc số cư dân cư trú lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. Kinh tế làm rẫy là chủ yếu theo phương thức phát rừng làm rẫy, chọc lỗ tra hạt truyền thống; có một số nghề thủ công như dệt, đan lát; có chăn nuôi và duy trì phương thức săn bắn, hái lượm.
Người Cơ-tu sống thành từng làng cách xa nhau, gọi là Vel hay Vil, mỗi Vel có khoảng 15 - 30 nóc nhà sàn. Đứng đầu Vel là trưởng làng, thường là các già làng có uy tín nhất. Toàn bộ nhà ở trong làng dựng thành một vòng quây quanh khoảng trống ở giữa. Mỗi làng có ngôi nhà chung gọi là Gươl, cao lớn và đẹp nhất, là nơi hội họp và sinh hoạt cộng đồng. Người Cờ-tu theo chế độ phụ hệ, có nhiều dòng họ, mỗi dòng họ có tên gọi và kiêng cữ một điều nhất định và có truyện giải thích về điều kiêng cữ ấy. Khi cưới xin, nhà trai phải tốn của cải nộp cho nhà gái và tổ chức cưới. Phổ biến hình thức con trai cô lấy con gái cậu, vợ goá lấy em hoặc anh của chồng quá cố. Quan hệ hôn nhân một chiều: nếu nhà A đã gả con gái cho nhà B thì nhà B không được gả con gái cho nhà A. Trước kia, những người giàu thích tổ chức "cướp vợ". Mỗi làng có nghĩa địa riêng, người trong họ chôn cùng một khu đất; có nhà mồ và tượng nhà mồ, không cúng giỗ cũng không tảo mộ. Người Cờ-tu ưa chuộng nhất bộ y phục bằng vải dệt nền đen có hoa văn bằng chì, thứ đến hoa văn bằng cườm trắng. Đàn ông quấn khố, thường ở trần. Đàn bà mặc váy ống. Nếu váy dài thì che từ ngực trở xuống, nếu váy ngắn thì thân trên mặc áo không ống tay; ngày lễ hội có thêm thắt lưng nền trắng mộc. Loại vải tấm lớn dùng để choàng, quấn và đắp. Trong đời sống cá nhân, gia đình và của làng, có rất nhiều lễ cúng gắn với sức khoẻ, với sản xuất. Theo người Cơ-tu, đối với các siêu nhân, máu con vật hiến sinh quan trọng đặc biệt. Làng có thể có vật "thiêng" (thường là hòn đá) được cất giữ ở ngôi nhà chung, như một thứ bùa. Một số cá nhân cũng có loại bùa này. Sinh hoạt văn hoá dân gian phong phú như lối hát trữ tình gọi là Tơ Len và có nhiều truyện cổ. Hàng năm có nhiều lễ hội cầu mong cho cuộc sống bình an và mùa màng bội thu; lễ đâm trâu là lễ hội tiêu biểu nhất. Trong lễ hội thường trình diễn múa tập thể: nữ múa Dạ dạ, nam múa Ting tung.
8. Dân tộc Gié-Triêng
Người Gié-Triêng là dân cư gắn bó rất lâu đời ở vùng quanh dãy núi Ngọc Linh. Kinh tế chủ yếu là làm nương rẫy, ngoài ra còn duy trì săn bắn và hái lượm. Các gia đình nuôi gia súc để dùng vào việc hiến sinh tế lễ, có một số người đãi vàng ở sông. Người Gié-Triêng có sở trường về đan lát, nghề dệt vải phát triển ở nhiều nơi.
Bản làng nằm cheo leo lưng chừng núi, mỗi bản có già làng gọi là Kgia đứng đầu làng. Hình thức nhà sàn dài gồm nhiều "bếp" là lối kiến trúc truyền thống phổ biến, đặc biệt ở vùng người Gié và Bnoong, có khi cả làng ở trong một vài ngôi nhà. Về sau nhà trệt đã xuất hiện đó đây. Ở nhiều nơi, trừ nhóm Bnoong, trong làng thường dựng nhà công cộng cao to và đẹp. Tập quán bố trí nhà thành một vòng ôm quanh khoảng trống ở giữa là một nét văn hoá lâu đời của họ ở Giằng và một số nơi ở Đắc Glây.
Theo nếp cổ truyền, nam quấn khố ở trần, trời lạnh thì choàng tấm vải cho ấm người; nữ mặc áo, quấn váy, có nơi dùng loại váy ống dài để che luôn cả thân trên, từ ngực trở xuống. Phụ nữ ưa đeo nhiều trang sức, đeo ở cổ, tay, chân, tai; phụ nữ các gia đình khá giả có cả hoa tai bằng ngà voi. Y phục theo kiểu người Kinh hiện tại đã thâm nhập tận các làng xa xôi hẻo lánh. Người Gié-Triêng (trừ nhóm Bnoong) duy trì một số tập tục cũ như: con trai lấy họ cha, con gái lấy họ mẹ; mỗi họ đều có tên, có kiêng kỵ và có truyện giải thích về tên họ và điều kiêng kỵ đó.
Con trai 10 tuổi bắt đầu ngủ đêm tại nhà Rông; khoảng 13-15 tuổi thì cà răng, sau đó vài ba năm thì lấy vợ; việc hôn nhân do con gái chủ động, trước khi lấy nhau con trai phải biết đan lát và đánh cồng chiêng; con gái phải biết dệt và đan chiếu, chuẩn bị 100 bó củi nộp cho nhà trai trong lễ cưới. Trước kia, đôi vợ chồng cư trú luân phiên mỗi bên vài năm. Người chết chôn trong quan tài độc mộc, tang lễ tôn giáo có tượng đầu trâu ở mộ, sau một thời gian làm lễ bỏ mả đoạn tang. Suốt 10 ngày, khi làng có người mới chết, trước khi tang gia cúng "nhắc nhở" cho hồn người chết ở yên bãi mộ, dân làng không vào rừng, không đi làm xa nhà. Nghi thức đoạn tuyệt với mộ người chết thường được tổ chức vào dịp đầu năm tại cạnh ngôi mộ. Bộ nhạc cụ quý giá và quan trọng nhất là cồng - chiêng. Nguyên ống nứa cũng là loại nhạc cụ để thổi, vỗ, gõ. Các loại đàn sáo, khèn đều đơn giản, thông dụng trong đời sống âm nhạc.
9. Dân tộc Hrê
Người Hrê thuộc số cư dân sinh sống rất lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, sống chủ yếu ở miền tây tỉnh Quảng Ngãi (các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long) và huyện An Lão, tỉnh Bình Định; một số ít ở tỉnh Kon Tum (huyện Kon Plông), Người Hrê làm ruộng nước là chính, chỉ có một bộ phận sống chủ yếu nhờ rẫy. Nghề thủ công có đan lát và dệt vải nhưng nay cũng không phát triển, nhất là nghề dệt chỉ còn có ở vài nơi. Hái lượm, săn bắn, đánh cá cung cấp nguồn thức ăn quan trọng cho mỗi gia đình.
Người Hrê ở trong các ngôi nhà sàn, mặt nhà cao hơn mặt đất chừng một mét, vách dựng nghiêng, phía trên choãi ra, hai đầu nhà có hình thú rừng, mỗi đầu nhà sàn có gian cách với trong nhà, một đầu cho đàn ông tiếp khách, còn đầu kia giành cho phụ nữ. Mỗi làng có già làng có uy tín và ảnh hưởng lớn. Theo nếp cũ, đàn ông đóng khố, áo cánh ngắn hoặc ở trần, đầu quấn khăn; đàn bà mặc váy hai tầng, áo 5 thân, trùm khăn; nam nữ đều búi tóc, cài trâm hoặc lông chim, thích đeo trang sức, riêng nam giới không trang sức ở tai. Hiện nay, hầu hết người Hrê mặc theo kiểu người Kinh. Tuy còn nhiều phụ nữ dùng váy nhưng không phải loại vải sợi bông tự làm ra với những dải hoa văn ở hai đầu ống váy và khi mặc không tạo thành hai tầng như xưa. Người Hrê có nhiều kiêng cữ và lễ thức tôn giáo, xuất phát từ quan niệm mọi vật đều có hồn hay ma và con người bị các lực lượng siêu nhân chi phối. Cộng đồng làng chỉ tổ chức cúng cầu an, tránh dịch bệnh, còn lại đều là các lễ cúng của gia đình. Hàng năm, người Hrê ăn tết vào khoảng tháng 10, sau khi thu hoạch lúa, nay nhiều làng theo Tết Nguyên đán. Văn hoá, văn nghệ dân gian khá phong phú. Nhạc cụ thường dùng là bộ chiêng cồng ba chiếc, các loại đàn ống tre hoặc có vỏ bầu làm hộp âm, sáo, nhị, đàn môi. Dân ca phổ biến nhất là điệu Kalêu và Kachoi. Truyện cổ (Hmon) được lưu truyền như một vốn quý trong văn hoá dân tộc, gồm những đề tài khác nhau. Các mô típ văn hoa hình học dệt trên vải và thể hiện trên đồ đan cũng mang tính truyền thống lâu đời.
10. Dân tộc Kháng
Sinh sống tập trung ở hai tỉnh Lai Châu và Sơn La. Nương rẫy là hình thái kinh tế chủ đạo với cách thức phát đốt, chọc lỗ tra hạt. Có thể phân thành ba nhóm: Nhóm sống du canh, du cư: làm rẫy; Nhóm du canh bán định cư: làm rẫy kết hợp làm ruộng; Nhóm định canh, định cư: làm ruộng kết hợp làm rẫy. Chăn nuôi khá phát triển, nghề phụ nổi tiếng là đan lát đồ gia dụng (hòm, ghế mây, mâm, gùi...). Người Kháng giỏi đóng thuyền và đi thuyền độc mộc, thuyền đuôi én. Thuyền của họ đóng được các dân tộc anh em ưa mua dùng.
Bản làng bố trí ở chân núi, ven sông suối. Nhà có hai dạng: nhà tạm bợ và nhà kiên cố. Nhà sàn gồm một mái và hai mái, không phủ nóc, không có chái, có cửa chính thông suốt từ đầu này sang đầu kia, thông với cầu thang lên xuống. Người Kháng mặc giống người Thái. Hôn nhân có nhiều nghi thức, và qua hai lần cưới: lần cưới đầu chàng trai đến ở rể và lần thứ hai đưa dâu về nhà chồng để sinh sống riêng, đây là lễ quan trọng nhất. Người chết được chôn cất chu đáo, trên mộ có nhà mồ và những đồ vật chia cho người chết, phía đầu mộ có cột chôn sâu cao 4-5 mét trên đỉnh cột có con chim bằng gỗ và treo áo của vợ (hay chồng) của người chết. Bố, mẹ chết được thờ trên tấm phên ở nóc nhà và biến thành ma nhà. Hàng năm bản làng cúng ma Trời và ma Đất.