Lịch sử phát triển và thành tựu nổi bật của Ngành Văn hóa trong 80 năm qua
(CVH) - Hướng đến kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống Ngành Văn hóa (28/8/1945 - 28/8/2025), cùng nhìn lại lịch sử phát triển và những thành tựu nổi bật của Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong 80 năm qua.
Trải qua 80 năm xây dựng và phát triển, dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; dưới sự Lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng; sự quản lý, điều hành của Nhà nước, Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) đã đồng hành cùng dân tộc, đi trọn một hành trình vẻ vang và đầy tự hào, phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân, vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
Lịch sử phát triển của Ngành VHTTDL có thể chia thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn trước và sau Cách mạng Tháng Tám
Lĩnh vực Văn hóa - Thông tin:
Vào đầu những năm 40 của thế kỷ 20, trong rất nhiều công việc quan trọng và cần kíp phải chuẩn bị cho Cuộc tổng khởi nghĩa đánh đổ chế độ phát xít, thực dân phong kiến, lập nên chế độ dân chủ, cộng hòa, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Tổng Bí thư Trường Chinh đã nhận rõ vai trò, đóng góp to lớn và quan trọng của văn hóa. Và đòi hỏi cấp bách lúc này cần phải có một đường lối nhất quán cho hoạt động văn hóa, văn nghệ phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trước yêu cầu đó, tháng 02/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã thông qua Đề cương Văn hóa Việt Nam. Văn kiện nêu rõ ba nguyên tắc vận động văn hóa: dân tộc hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa; đồng thời khẳng định văn hóa là một mặt trận, người làm văn hóa là chiến sĩ. Đề cương văn hóa năm 1943 được coi là bản tuyên ngôn và cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa, đặt nền móng lý luận, định hướng cho sự hình thành và phát triển nền văn hóa Việt Nam mới, nền văn hóa thời đại Hồ Chí Minh.
Tuyên cáo ngày 28/8/1945 của Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong nội các quốc gia Bộ Thông tin, Tuyên truyền được thành lập (sau đó ngày 01/01/1946 đổi tên là Bộ Tuyên truyền và Cổ động) - tiền thân của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày nay. Từ đó, ngày 28/8 hàng năm đã trở thành Ngày Truyền thống của Ngành VHTTDL.
Sau khi Quốc hội Khóa I họp ngày 02/3/1946, thành lập Chính phủ Liên hiệp chính thức thì Bộ Tuyên truyền và Cổ động không còn tồn tại. Đến ngày 13/5/1946, Nha Tổng giám đốc thông tin, tuyên truyền mới được tổ chức dưới quyền chỉ huy và kiểm soát trực tiếp của Bộ Nội vụ, và đến ngày 27/11/1946 đổi thành Nha thông tin. Các cơ quan phụ thuộc có Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, thành lập ngày 7/9/1945.
Ngày 24/11/1946, Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất được triệu tập tại Hà Nội. Hồ Chủ tịch khai mạc Hội nghị, Người chỉ rõ: Văn hóa phải hướng dẫn quốc dân thực hiện Độc lập, Tự cường và Tự chủ. Đây cũng chính là kim chỉ nam xuyên suốt mọi hoạt động của Ngành Văn hóa và Thông tin.
Lĩnh vực Thể dục thể thao:
Sắc lệnh ngày 30/01/1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, thành lập Nha Thể dục Trung ương trực thuộc Bộ Thanh niên là “Thực hành thể dục trong toàn quốc”. Phát động phong trào “Khỏe vì nước” thu hút đông đảo quần chúng tham gia.

Tổng Bí thư Tô Lâm thay mặt Lãnh đạo Đảng và Nhà nước trao Huân chương Lao động hạng Nhất cho Bộ VHTTDL tại Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống ngành Văn hóa (28/8/1945 - 28/8/2025) diễn ra tại Nhà hát Lớn sáng 23/8 (ảnh qdnd.vn)
Giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp (19/12/1946 đến tháng 7/1954)
Lĩnh vực Văn hóa - Thông tin:
Công tác thông tin, tuyên truyền lúc này chiếm vị trí hàng đầu trong năm bước công tác cách mạng với khẩu hiệu của Hồ Chủ tịch tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ II họp vào tháng 7/1948 Hội nghị cán bộ văn hóa lần thứ I vào tháng 02/1949: “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”.
Ngày 10/7/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 38/SL sáp nhập Nha Thông tin thuộc Bộ Nội vụ vào Thủ tướng Phủ và Sắc lệnh số 83/SL hợp nhất Nha thông tin thuộc Thủ tướng Phủ và Vụ Văn học, nghệ thuật thuộc Bộ Giáo dục thành Nha Tuyên truyền và Văn nghệ thuộc Thủ tướng Phủ do đồng chí Tố Hữu phụ trách.
Cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm diễn ra ác liệt. Song ở đâu có kháng chiến, ở đó có văn hóa kháng chiến. Những “Chiến sĩ trên mặt trận văn hóa” qua các thời kỳ cách mạng đã biết cách tổ chức công tác tuyên truyền thành một nghệ thuật, đồng thời lại biết cách đưa nghệ thuật vào công tác tuyên truyền. Đây là một thành tựu lớn của nền văn hóa - nghệ thuật - thông tin - tuyên truyền của Ngành chúng ta.
Ngày 10/10/1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 122- Sắc lệnh sát nhập bộ phận nhà in của Nha Tuyên truyền thành lập Nhà in Quốc gia, đơn vị sản xuất đồng thời là cơ qaun quản lý hoạt động in ấn của cả nước (tiền thân của Cục Xuất bản, In và Phát hành hiện nay).
Lĩnh vực Thể dục thể thao:
Ngày 30 tháng Giêng năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 14 thiết lập Bộ Thanh niên một Nha thể dục Trung ương thuộc Bộ Thanh niên, tiền thân của ngành Thể dục thể thao ngày nay.
Ngày 27/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 38 thiết lập trong Bộ Quốc gia Giáo dục một Nha Thanh niên và Thể dục, gồm có một phòng Thanh niên Trung ương và một Phòng Thể dục Trung ương.
Lĩnh vực Du lịch:
Thành lập Công ty Du lịch Việt Nam (tiền thân của Tổng cục Du lịch) trực thuộc Bộ Ngoại thương (Nghị định số 26/CP ngày 9/7/1960). Ngày 16/3/1963 Bộ Ngoại thương ban hành Quyết định số 164-BNT-TCCB quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Công ty Du lịch Việt Nam.
Giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà (1954-1975)
Lĩnh vực Văn hóa - Thông tin:
* Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954-1964)
Bộ Tuyên truyền được Hội đồng Chính phủ thành lập từ trung tuần tháng 8-1954 và được Quốc hội V thông qua ngày 20/5/1955 đổi tên là Bộ Văn hóa, do giáo sư Hoàng Minh Giám làm Bộ trưởng. Giai đoạn này, sự nghiệp văn hóa và thông tin được phát triển toàn diện theo định hướng rõ ràng để đi sâu vào chuyên ngành hoạt động, phát triển có bài bản về nội dung, về đào tạo cán bộ và phương thức hoạt động, tăng cường lực lượng văn hóa, thông tin để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tham gia chiến đấu ở miền Nam.
Có thể nói đây là thời kỳ phát triển cơ bản, toàn diện nhất, xây dựng cơ sở nền văn hóa mới khắp các tỉnh, thành phố miền Bắc.
* Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại và chi viện miền Nam (1965-1975)
Giai đoạn này, báo chí, xuất bản đóng vai trò hết sức quan trọng động viên toàn quân, toàn dân chiến đấu chống quân xâm lược. Đặc biệt trong thời kỳ này có hai hoạt động văn hóa, văn nghệ nổi bật đó là phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” và “Đọc sách có hướng dẫn” đã góp phần giáo dục lòng căm thù sâu sắc của nhân dân đối với bọn xâm lược và bè lũ tay sai, cổ vũ tinh thần yêu nước, giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Công tác thông tin trở thành “mũi nhọn” với việc thành lập Tổng cục Thông tin (Quyết định số 165-NQ/TVQH ngày 11/10/1965). Chỉ thị về công tác thông tin trong quần chúng của Ban Bí thư Trung ương Đảng số 118/CT-TW ngày 25/12/1965 đề ra cho công tác thông tin nhiệm vụ nặng nề: “Phải cổ động thường xuyên bằng các hình thức tuyên truyền nhẹ nhàng, có tính chất quần chúng rộng rãi” để “Nhà nhà đều biết, người người đều nghe”.
* Miền Nam chống Mỹ, ngụy (1954-1975)
Ở miền Nam, sau khi chuyển quân, tập kết, ngành Văn hóa, Thông tin thực tế không còn tồn tại. Mọi hoạt động phải chuyển vào bí mật, lấy tuyên truyền miệng là phương thức hoạt động chính. Sau khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam chính thức ra đời ngày 20/12/1960 tại tỉnh Tây Ninh, Ngành Thông tin Văn hóa ở miền Nam nhanh chóng được khôi phục. Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập ngày 06/6/1969, đồng chí Lưu Hữu Phước làm Bộ trưởng Bộ Thông tin - Văn hóa. Trải qua bao hy sinh, gian khổ, đất nước đã giành được tự do, độc lập: Đại thắng mùa xuân 1975 đi vào lịch sử như một thiên anh hùng ca bất diệt; người người nồng nhiệt xuống đường với rừng cờ, biểu ngữ, ảnh Bác Hồ, cất cao tiếng hát “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”.
Giai đoạn củng cố hậu phương lớn, chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và tất cả cho tiền tuyến lớn miền Nam, tiến lên “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” là giai đoạn sôi động nhất của ngành Văn hóa và thông tin trong cả nước.
Lĩnh vực Thể dục thể thao:
Ban Thể dục thể thao Trung ương được thành lập năm 1957, đến năm 1960 đổi thành Ủy ban Thể dục thể thao.
Lĩnh vực Du lịch:
Chuyển giao Công ty Du lịch Việt Nam sang Phủ Thủ tướng quản lý (Nghị định 145/CP ngày 18/8/1969 của Hội đồng Chính phủ).

Chương trình nghệ thuật tại Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống ngành Văn hóa (28/8/1945 - 28/8/2025) (ảnh bvhttdl.gov.vn)
Giai đoạn sau Đại thắng mùa xuân 1975 đến trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, năm 1986
Lĩnh vực Văn hóa - Thông tin:
Tháng 6/1976, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thành lập, Chính phủ tổ chức Bộ Văn hóa do Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu làm Bộ trưởng.
Năm 1977, Ủy ban phát thanh và truyền hình Việt Nam ra đời. Xưởng phim truyền hình thuộc Tổng cục thông tin đã chuyển từ trước, nay chuyển tiếp phần truyền thanh các tỉnh sang Ủy ban phát thanh và truyền hình. Tổng cục thông tin hợp nhất với Bộ Văn hóa thành Bộ Văn hóa và Thông tin theo Nghị quyết số 99/NQ/QHK6 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, và đến ngày 04/7/1981 đổi lại Bộ Văn hóa theo Nghị quyết kỳ họp thứ I Quốc hội khóa VII.
Có thể nói thời kỳ 1975-1985, ngành Văn hóa thông tin chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, tuy mấy năm đầu có lúng túng, bị động, khó khăn, nhưng đã vượt qua thử thách và phát triển toàn diện với một chất lượng mới trên phạm vi cả nước.
Lĩnh vực Thể dục thể thao:
Phát triển các phong trào thể dục thể thao quần chúng, đặc biệt đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”.
Lĩnh vực Du lịch:
Thành lập Tổng cục Du lịch trực thuộc Hội đồng Chính phủ (Quyết nghị 262NQ/QHK6 ngày 27/6/1978 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội).
Ngày 23/01/1979, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 32/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch.
Giai đoạn đổi mới (1986 - 2006)
Lĩnh vực Văn hóa - Thông tin:
Trước yêu cầu đổi mới, Bộ Thông tin được lập lại trên cơ sở giải thể Ủy ban phát thanh và truyền hình và tách các bộ phận quản lý xuất bản, báo chí, thông tin, cổ động, triển lãm của Bộ Văn hóa theo Quyết định số 34 của Bộ Chính trị và Thông cáo ngày 16/02/1986 của Hội đồng Nhà nước để thống nhất quản lý các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng chí Trần Hoàn làm Bộ trưởng Bộ Thông tin. Đồng chí Trần Văn Phác làm Bộ trưởng Bộ Văn hóa.
Ba năm sau (1987-1990), một tổ chức mới được hình thành, hợp nhất 4 cơ quan: Bộ Văn hóa, Bộ Thông tin, Tổng cục Thể dục thể thao, Tổng cục Du lịch thành Bộ Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch theo Quyết định số 244 NQ/HĐNN8 ngày 31/3/1990 do đồng chí Trần Hoàn làm Bộ trưởng.
Vừa hợp lại xong đã thấy không hợp lý nên mỗi năm lại tách dần một bộ phận: Du lịch sáp nhập vào Bộ Thương mại và Du lịch (Nghị quyết Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII ngày 12/8/1991). Ngày 26/10/1992, thành lập Tổng cục Du lịch là cơ quan thuộc Chính phủ (Nghị định số 05-CP). Sau khi tách Du lịch, lại đến Thể dục thể thao, Phát thanh truyền hình thành các ngành trực thuộc Chính phủ.
Năm 1993, Bộ Văn hóa - Thông tin trở lại như trước đây, với chức năng, nhiệm vụ như Nghị định số 81-CP ngày 08/4/1994 của Chính phủ quy định. Việc liên tục tách ra nhập vào như trên đã ảnh hưởng về nhiều mặt hoạt động của Ngành. Rất may là thấy trước vấn đề này, nên với phương châm chỉ đạo “Giữ nguyên trạng, bộ phận nào làm việc nấy, không xáo trộn cả người và kinh phí” nên mọi công việc được tiến hành bình thường. Trong hai năm 1994 - 1995, ngành Văn hóa - Thông tin đã tập trung mọi cố gắng phục vụ các ngày lễ lớn của dân tộc. Đây là sự khôi phục và phát triển các hoạt động văn hóa, thông tin chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp của toàn xã hội theo phương hướng đúng đắn mà Nghị quyết Trung ương lần thứ 4 của Đảng đã đề ra.
Năm 1998, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” được ban hành, mở ra một thời kỳ mới cho sự nghiệp văn hóa Việt Nam. Bám sát 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản, 10 nhiệm vụ cụ thể và 4 giải pháp chủ yếu để tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ mới, toàn Ngành đã phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, tiếp tục khẳng định những thành tựu trong quá trình đổi mới.
Năm 2000, năm bản lề chuyển giao thiên niên kỷ đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc của ngành Văn hóa - Thông tin. Nhiều hoạt động văn hóa - thông tin kỷ niệm các ngày lễ lớn của Đảng và dân tộc được tổ chức; bộ mặt văn hóa nước nhà khởi sắc, chuyển biến đồng đều, tích cực theo hướng mà Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đề ra.
Từ năm 2006, ngành Văn hóa - Thông tin chủ động triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 (khóa VIII), Kết luận Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo đảm “sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội” (Văn kiện Đại hội Đảng X).
Lĩnh vực Thể dục thể thao:
Năm 2000, thể thao tiếp tục con đường hội nhập quốc tế và chinh phục các đỉnh cao thành tích mới, tham dự Olympic mùa hè lần thứ 27 tại Sydney. Năm 2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 57/2002/QĐ-TTg ngày 26/4/2002 phê duyệt quy hoạch phát triển ngành Thể dục thể thao đến năm 2010.
Lĩnh vực Du lịch:
Ngày 15/8/1987, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 120-HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch.
Nghị quyết Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII ngày 12/8/1991 sáp nhập Tổng cục Du lịch vào Bộ Thương mại và Du lịch.
Ngày 26/10/1992, Chính phủ ra Nghị định số 05-CP thành lập Tổng cục Du lịch là cơ quan thuộc Chính phủ.
Giai đoạn năm 2007 đến nay
Ngày 31/7/2007 lại đánh dấu một bước ngoặt lớn của Ngành: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được thành lập, thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực (Nghị quyết số: 01/2007/QH12) trên cơ sở sáp nhập Tổng cục Du lịch, Ủy ban Thể dục thể thao; tiếp nhận phần quản lý nhà nước về gia đình từ Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em thành Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Từ ngày 01/3/2025, Bộ tiếp nhận thêm chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản, truyền thông từ Bộ Thông tin và Truyền thông.
Những thành tựu nổi bật trong 80 năm xây dựng và phát triển
Giai đoạn từ 1945 - 1954
Sau khi Đề cương về Văn hóa Việt Nam năm 1943 được ra đời, sự nghiệp cách mạng văn hóa dân tộc đã thực sự bước vào giai đoạn lịch sử, trở thành một bộ phận hữu cơ, đồng hành và phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc giành độc lập tự do. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa trở thành vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng, góp phần hiệu triệu, đoàn kết toàn dân đứng lên giành độc lập năm 1945 với cuộc cách mạng Tháng Tám, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc.
Khí thế cách mạng của những năm tháng hào hùng ấy còn lưu dấu mãi trong âm hưởng các ca khúc: Tiến quân ca (Văn Cao), Diệt phát xít (Nguyễn Đình Thi), Mười chín tháng Tám - Xuân Oanh... Sau khi nước nhà độc lập, công tác tuyên truyền, cổ động giúp tái thiết đất nước, xóa nạn mù chữ, mở mang dân trí. Và, ngay trong giai đoạn cực kỳ cam go của cuộc kháng chiến chống Pháp, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954), với phương châm “kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”, công tác báo chí, thông tin, tuyên truyền được đẩy mạnh; các loại hình văn nghệ như ca khúc cách mạng, thơ ca, kịch nói… ra đời mạnh mẽ, cổ vũ tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu của quân và dân ta.
Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951, Bác Hồ đã khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.” Thực hiện lời căn dặn của Người, những người làm công tác văn hóa đã chẳng quản gian khó, hy sinh, truyền lửa sức mạnh tinh thần, góp phần chung vào thắng lợi của dân tộc với chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Giai đoạn từ 1954 - 1975
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 -1975), văn hóa Việt Nam với đỉnh cao là các tác phẩm văn học, nghệ thuật sôi nổi phản ánh cuộc sống chiến đấu, lao động sản xuất ở miền Bắc và ý chí quật cường đấu tranh của đồng bào miền Nam. Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc dần được định hình, với sự phát triển của các thiết chế văn hóa như thư viện, bảo tàng, rạp chiếu bóng, nhà hát… phục vụ nhân dân, xây dựng con người mới XHCN. Dù trong chiến tranh, vẫn có sự giao lưu, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa thế giới, nhất là khối các nước XHCN, làm phong phú thêm đời sống văn hóa dân tộc. Chi viện cho chiến trường miền Nam, các văn nghệ sĩ, nhà báo - chiến sĩ lên đường với khí thế hào hùng “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu, Theo chân Bác). Các phong trào “tiếng hát át tiếng bom”, những trang viết, lời ca bám sát hơi thở của cuộc sống của các văn nghệ sĩ đã thôi thúc quân và dân ta giành thắng lợi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước với đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Có thể nói, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ , văn hóa, thông tin thực sự là một vũ khí tinh thần sắc bén, góp phần khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn, hun đúc ý chí đấu tranh kiên cường và xây dựng niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng. Lực lượng văn nghệ sĩ, báo chí cách mạng đã hòa mình vào thực tiễn chiến đấu, “lấy bút làm gươm”, “lấy nghệ thuật làm vũ khí”. Các văn nghệ sĩ, nhà báo thực sự trở thành những “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa - tư tưởng”, trực tiếp tham gia chiến đấu hoặc sáng tác để cổ vũ tinh thần kháng chiến. Thơ ca, âm nhạc, kịch, hội họa, điện ảnh, báo chí… mang đậm hơi thở cuộc sống chiến đấu, phản ánh ý chí kiên cường, lòng dũng cảm và niềm tin vào thắng lợi.
Sự trưởng thành của ngành Văn hóa trong giai đoạn này thể hiện bản lĩnh chính trị, sự kiên cường, linh hoạt, khả năng thích ứng với mọi hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Không chỉ là công cụ tuyên truyền, đấu tranh, văn hóa còn thực sự là một nguồn sức mạnh nội sinh mạnh mẽ, cổ vũ, thôi thúc quân và dân ta đánh thắng giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước. Nhiều văn nghệ sĩ, nhà báo, nhà quay phim đã ngã xuống trên các chiến trường để lại cho chúng ta những trang viết, tác phẩm, thước phim tư liệu vô giá. Máu của họ đã tô thắm truyền thống yêu nước hào hùng của dân tộc ta và ngành Văn hóa.
Có thể khẳng định, văn hóa Việt Nam đã góp phần to lớn cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ viết nên những bản trường ca vĩ đại của dân tộc trong thế kỷ 20. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV nhận định: “Văn học, nghệ thuật nước ta xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của những nền văn học, nghệ thuật chống đế quốc trong thời đại ngày nay”.
Giai đoạn từ 1975 - 1986
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, Bắc - Nam sum họp một nhà, văn hóa tiếp tục giữ vai trò nền tảng tinh thần của dân tộc, đi đầu trong hàn gắn vết thương chiến tranh, thúc đẩy tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế; truyền đi tinh thần lạc quan, bảo vệ và làm mới những giá trị cốt lõi, tạo thành sợi dây kết nối quá khứ, hiện tại và tương lai. Dự báo và định hướng những vấn đề bất cập của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp để mở đường cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước dưới sự Lãnh đạo của Đảng.
Đảng vẫn luôn coi trọng công tác lý luận trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ để định hướng hoạt động thực tiễn. Các luận điểm lớn về xây dựng nền văn hóa mới được thể hiện rõ trong văn kiện Đại hội IV và V của Đảng với quan điểm xuyên suốt văn hóa, văn nghệ là bộ phận hữu cơ của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương xây dựng nền văn hóa mới gắn với việc hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa được triển khai đồng bộ.
Toàn ngành đã tập trung phát triển đời sống văn hóa cơ sở, mở rộng phong trào văn hóa quần chúng; xây dựng thiết chế văn hóa từ trung ương đến địa phương, ban hành pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích. Thành tựu văn hóa, văn nghệ giai đoạn này khá toàn diện: văn học có nhiều sáng tác mới phản ánh cả niềm vui và trăn trở hậu chiến; sân khấu, âm nhạc, điện ảnh phát triển với nhiều tác phẩm tiêu biểu; báo chí, xuất bản được thống nhất và mở rộng; phong trào thể dục thể thao, hoạt động mỹ thuật, tranh cổ động… đều phục vụ tích cực nhiệm vụ chính trị và đời sống nhân dân.
Tựu chung lại, trong 10 năm sau thống nhất, mặc dù còn nhiều thách thức, lĩnh vực văn hóa Việt Nam đã chuyển từ văn hóa kháng chiến sang văn hóa kiến quốc, đạt bước phát triển mới, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa và bồi đắp nền tảng tinh thần của đất nước.
Giai đoạn từ 1986 đến nay
Một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển văn hóa Việt Nam diễn ra vào năm 1986, khi Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước. Văn hóa Việt Nam tiếp tục giữ vai trò đặc biệt quan trọng, luôn tiên phong đi trước mở đường, định hướng dư luận cho các cải cách táo bạo về kinh tế, xã hội, góp phần thúc đẩy xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, đồng thời không ngừng tiếp thu tinh hoa nhân loại, để tự làm mới mình trong dòng chảy thời đại.
Cùng với việc chuyển nền kinh tế từ quan liêu bao cấp, sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, công tác quản lý văn hóa cũng đã có những thay đổi để phù hợp với tình hình mới. Xã hội hóa văn hóa đã góp phần giải quyết những khó khăn cho các hoạt động văn hóa, nhất là việc kêu gọi các nguồn lực tu bổ di tích, xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao từng bước đồng bộ qua các năm từ Trung ương tới cơ sở.
Tiếp sau Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) xác định: “Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Theo đó, nhiều nghị quyết của Trung ương Đảng đã thể hiện sự quan tâm, coi trọng phát triển văn hóa. Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII, 1998) - nghị quyết chuyên đề về văn hóa đầu tiên của Đảng, khẳng định rõ: Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ; Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết số 23-NQ/TW (Khóa X, 2008) định hướng đổi mới, nâng cao hoạt động văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới, xác định văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Nghị quyết số 33-NQ/TW (Khóa XI, 2014) nhấn mạnh: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh ”. Các nghị quyết trên là những định hướng quan trọng để đẩy mạnh xây dựng và phát triển mạnh mẽ nền văn hóa dân tộc.
Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng được tổ chức ngày 24/01/2021 - Hội nghị đầu tiên sau 75 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì
Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất năm 1946 - đã tạo sự lan tỏa, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển đất nước trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân: “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, nói lên bản sắc của dân tộc. Văn hóa còn thì dân tộc còn...” .Theo đó, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh cần phải coi văn hóa ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội.
Có thể khẳng định, Ngành Văn hóa 80 năm qua đã viết nên bản trường ca rực rỡ - nơi bản sắc Việt Nam được hội tụ, kết tinh và tỏa sáng. Văn hóa trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển bền vững; văn hóa cùng với thông tin, thể thao, du lịch luôn đồng hành với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. Với tuyên ngôn hành động: “Văn hóa là nền tảng - Thông tin là mạch dẫn - Thể thao là sức mạnh - Du lịch là nhịp cầu kết nối”, Ngành Văn hóa ngày càng khẳng định được vị thế, uy tín của mình trong tiến trình phát triển của đất nước. Văn hóa theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp đã và đang vươn mình phát triển mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để đạt được những thành tựu to lớn, góp phần làm nên 80 mùa thu cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam ngàn năm văn hiến và anh hùng.
Với những thành tựu và đóng góp to lớn trong suốt chặng đường 80 năm xây dựng và phát triển, Ngành đã vinh dự được Đảng, Nhà nước ghi nhận bằng những phần thưởng cao quý như Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, cùng nhiều danh hiệu và phần thưởng cao quý khác đã được các cấp, các ngành từ trung ương tới cơ sở trao tặng cho hàng ngàn tập thể và cá nhân.
Hải Yến