Tái hiện Lễ cưới của dân tộc Nùng

(LVH) - Sáng 1/9, tại không gian làng dân tộc Nùng, Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào Nùng đến từ tỉnh Lạng Sơn đã tái hiện Lễ cưới của dân tộc mình, thể hiện nét văn hóa sinh hoạt đặc trưng, phản ánh đậm nét phong tục truyền thống của đồng bào. Đây là một trong những hoạt động chính tại "Làng" nhân dịp nghỉ lễ 2/9.

Đoàn nhà trai đi rước dâu

Người Nùng có một nền văn hóa rất phong phú và đa dạng với một kho tàng các loại thơ ca, nhạc, múa, truyện cổ tích thần thoại và các lễ hội... Trong đó phong tục hôn nhân là một vốn văn hóa cổ truyền đặc sắc của dân tộc này. Để tiến tới hôn nhân, người Nùng phải thực hiện trang trọng các nghi lễ như: Lễ so tuổi, Lễ dạm hỏi, Lễ dẫn cưới, Lễ đón dâu, Lễ lại mặt và một số tục lệ khác. Trong đó Lễ cưới là một nghi lễ đặc biệt đã lưu truyền trong đời sống người Nùng qua nhiều thế hệ. Nghi lễ này có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, gắn kết cộng đồng, cũng như góp phần cho sắc màu vườn hoa văn hóa của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam thêm rực rỡ.

Mâm lễ trước cửa nhà chú trước khi đón dâu về

Đầu tiên là lễ so tuổi. So tuổi theo tiếng của người Nùng là “Au mình”. Trên cơ sở tình yêu của đôi bạn trẻ, nhà trai sẽ mang sang nhà gái một đôi quả cau để xin thông tin về ngày, tháng, năm sinh của cô gái. Nếu xét thấy hợp nhau, nhà trai sẽ đến nhà gái lần hai để làm lễ dạm hỏi. Trong lễ dạm hỏi, nhà trai chọn một người làm ông mối, người này phải là người đã có gia đình và có cả con trai, con gái (thường nói là có nếp, có tẻ), thay mặt nhà trai bàn với nhà gái về việc hôn lễ của đôi trẻ. Nếu được gia đình nhà gái nhất trí thì nhà trai sẽ hẹn ngày đến để làm lễ ăn hỏi.

Bố chú rể thắp hương mời ông bà tổ tiên về chứng giám

Sau lễ dạm hỏi là lễ ăn hỏi “Lảu nự”. Trong lễ ăn hỏi, hai bên gia đình bàn bạc nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến đám cưới như lễ vật, ngày giờ đón dâu... Sau khi mọi công việc trên hoàn tất, hai bên gia đình sẽ bắt tay vào chuẩn bị cho lễ cưới.

Cô dâu, chú rể lạy bàn thờ tổ tiên

Lễ cưới của người Nùng diễn ra với nhiều lễ nghi đặc sắc như: Khi đón dâu phải đúng thời gian ước hẹn; đoàn đón dâu của người Nùng thường là 6, 8 hoặc 10 người. Bởi theo quan niệm dân gian của người Nùng, số chẵn là số may mắn (đủ đôi, đủ cặp). Khi xuất hành đến nhà gái, chú rể phải thắp nén hương lên bàn thờ tổ tiên và cúi lạy. Trong lễ đón dâu, ông mối sẽ phải đối đáp bằng lối hát sli với nhà gái để xin rước cô dâu về.

Cô dâu đốt diêm ném bốn góc giường cầu mong mọi điều may mắn

Khi đến nhà trai, cô dâu phải đứng ngoài sân làm một số thủ tục rồi mới được vào nhà, theo phong tục của người Nùng, trước khi vào nhà, cô dâu phải dùng chân làm đổ cái bàn, trên đó có 5 cái bánh nặn bằng gio bếp mà gia đình nhà chú rể chuẩn bị, coi như từ nay cô dâu đã là người của nhà trai. Sau đó, cô dâu sẽ phải vào lạy bàn thờ tổ tiên và ra mời trầu, mời nước bố, mẹ chồng và những người có tuổi trong họ nhà trai. Từ đây, đôi trai gái chính thức trở thành vợ chồng.

Sau đó cô dâu ngồi trên giường nhìn thẳng vào ngọn đèn

Tiếp đó, cô dâu ra quỳ lạy và mời trầu, mời nước bố chồng và những người có tuổi trong họ nhà trai

Ngay sau các nghi lễ truyền thống, mọi người trong họ và khách mời cùng thưởng thức sản vật núi rừng, mừng hạnh phúc cô dâu chú rể, mừng gia tộc thêm một gia đình mới.

Cô dâu ra quỳ lạy mời trầu, mời nước mẹ chồng và những người có tuổi trong họ nhà trai

Lễ cưới của dân tộc Nùng là phong tục đặc sắc, truyền thống văn hoá lâu đời, không chỉ thể hiện lòng biết ơn, sự mong muốn mà ở đó còn thể hiện tinh thần đoàn kết và sức mạnh của cộng đồng. Đây còn là hoạt động thiết thực và ý nghĩa do chính chủ thể văn hóa thực hiện nhằm giới thiệu phong tục tốt đẹp của người Nùng tại “Ngôi nhà chung” và cũng là cơ hội để đồng bào Nùng quảng bá việc gìn giữ những phong tục, nghi lễ, những nét văn hóa độc đáo của dân tộc mình tới du khách khi đến tham quan "Làng".

Phạm Hương