-
Cụm các Làng dân tộc I (Khu làng I): gồm các công trình văn hóa và cảnh quan đặc trưng 28 dân tộc vùng rẻo cao, thung lũng, trung du thuộc các vùng Đông Bắc, Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ với hệ ngôn ngữ Tày - Thái, Tạng - Miến, Mông - Dao, Việt - Mường, Ka Đai: Lô Lô, Pu Péo, Hà Nhì, Mường, Hmông, Dao, Thái, Khơ mú, Tày, Cống, La Hủ, Phù Lá, Si La, Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Kháng, Mảng, Ơ đu, Xinh mun, Pà Thẻn, Cơ Lao, La Chí, La Ha, Thổ.
-
Cụm các Làng dân tộc II (Khu làng II): gồm các công trình văn hóa và cảnh quan 18 dân tộc vùng cao nguyên, đồi núi thuộc các vùng Nam Trung Bộ, Trường Sơn, Tây Nguyên với hệ ngôn ngữ Môn - Khơ me, Nam Đảo: Ba na, Bru-Vân Kiều, Tà ôi, Mnông, Mạ, Xơ đăng, Giẻ Triêng, Xtiêng, Rơ măm, Hrê, Cơ ho, Co, Raglai, Giarai, Ê đê, Cơ tu, Brâu, Chứt.
-
Cụm các Làng dân tộc III (Khu làng III): gồm các dân tộc cư trú ở các vùng có cảnh quan bán sơn địa, cao nguyên, đồi núi, triền sông thuộc hệ ngôn ngữ Môn - Khơ me và Nam Đảo: Chăm, Khơ me, Chơ ro, Chu ru.
-
Cụm các Làng dân tộc IV (Khu làng IV): gồm các công trình văn hóa và cảnh quan các dân tộc đa văn hóa, cư trú ở vùng bán sơn địa, đồi núi, đồng bằng, duyên hải, triền sông, thị trấn, thị tứ thuộc nhiều vùng văn hóa khác nhau như: Kinh, Hoa, Ngái, Sán Dìu thuộc hệ ngôn ngữ Hán, Việt - Mường.
Bên cạnh các cụm làng các dân tộc, Khu các làng dân tộc còn có các công trình kiến trúc, cảnh quan và dịch vụ phụ trợ: Tượng đài thánh Gióng; Nhà chiếu phim; Khu đón tiếp đầu làng; Nhà điều làng; Chợ vùng cao; Vườn tượng; Khu trưng bày đá Trường Sa; Quảng trường Khu các làng dân tộc II; Sân khấu nổi; Nhà triển lãm làng III; Lầu vọng cảnh; Nhà dịch vụ lưu trú làng III; Đài phun nước; Cổng vào các làng dân tộc...