Kiến trúc làng dân tộc Mường tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam

(LVH) - Kiến trúc không gian làng dân tộc Mường với những nét đặc trưng đã tạo nên bản sắc văn hóa riêng biệt, trong quần thể không gian kiến trúc 54 dân tộc Việt Nam tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội).

Làng dân tộc Mường nằm trong cụm làng dân tộc I, thuộc Khu các làng dân tộc, Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, nơi tái hiện không gian văn hóa, cảnh quan của 28 dân tộc vùng rẻo cao, thung lũng, trung du thuộc các vùng Đông Bắc, Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ với hệ ngôn ngữ Tày - Thái, Tạng - Miến, Mông - Dao, Việt - Mường, Ka Đai.

Quá trình xây dựng làng dân tộc Mường đã thực hiện công tác khảo sát, điền dã, lấy ý kiến đóng góp của các cấp ngành, địa phương và nghệ nhân, già làng trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng dân tộc Mường. Hồ sơ điền dã được tổ chức nghiệm thu thông qua Hội đồng chuyên gia, các nhà khoa học và cơ quan quản lý Nhà nước.

Làng dân tộc Mường tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam được xây dựng năm 2010 có diện tích 0,9ha, trong đó bao gồm ba nhà sàn và một miếu thờ có tổng diện tích công trình 445m2.

Không gian làng dân tộc Mường

Kiến trúc ba nhà sàn (tổng diện tích 441m2): Nhà năm gian, có bốn mái, hai mái trước được dựng theo hình thang cân, hai mái đầu hồi lại được dựng theo hình tam giác cân, mái lợp cỏ tranh, cầu thang bằng gỗ. Thang lên nhà ở giữa vách tiền. Vách che chắn xung quanh nhà bằng gỗ ván. Sàn nhà lát nứa đập dập

Kết cấu: Khung nhà bằng gỗ, khung vì kèo đơn bốn cột, hai cột cái đấu vào quá giang, đỡ đòn tay cái,hai cột con khớp với chân kèo, có léo hè và ngạnh gác lên đòn tay cái giúp đỡ kèo; cấu kiện vì kèo, dui hoành bằng gỗ, buộc lạt, con xỏ, mộng trơn.

Vật liệu: Tre, nứa, cỏ tranh, gỗ, đất, đá…

Bên trong nhà sàn: Gian đầu hồi bên phải là nơi tiếp khách và có bàn thờ tổ tiên. Gian bên trong dành cho bếp và chỗ ngủ của vợ, có bếp chính sát vách tiền. Gian đầu hồi bên trái là chỗ ngủ của con cái sát vách hậu, sạp có để các chum nước. Trâu, bò nhốt dưới gầm sàn. Có chỗ để chứa đồi, chứa củi. Nội thất nhà đơn giản, trang trí cửa sổ bằng con tiện.

Miếu thờ của dân tộc Mường tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam

Thang chính thường đặt ở đầu hồi bên phải. Thang phụ dành cho nữ giới đặt ở đầu hồi bên trái. Cả hai loại cầu thang này đều được thiết kế có số bậc cầu thang phải là số lẻ bởi người Mường quan niệm, số lẻ của bậc thang thể hiện ước nguyện quy luật vào - ra - vào thì của cải sẽ không đi ra ngoài, gia đình luôn được êm ấm, đoàn tụ, con cháu thành đạt. Số lượng bậc có thể là 3, 5, 7, 9… nhưng tuyệt đối không được là số chẵn.

Một điểm khá độc đáo nữa trong kết cấu không gian nhà sàn của người Mường, đó là lối thiết kế thông thủy. Tức là, các gian trong nhà chỉ có sự phân cách mang tính tượng trưng, tuyệt nhiên không có vách ngăn chắc chắn.

Đặc biệt, không gian nhà bố trí khá linh hoạt, được chia theo cả chiều dọc và chiều ngang. Đi theo lối từ cầu thang chính bước vào phần giữa sàn nhà, phía ngoài là để tiếp khách và có bàn thờ tổ tiên, phía trong là nơi sinh hoạt của cả gia đình.

Hiện tại, làng dân tộc Mường có nhóm đồng bào dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình sinh sống và hoạt động thường xuyên. Không gian làng dân tộc Mường cũng là một trong những điểm đến hấp dẫn của du khách khi đến với Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam

Theo chiều ngang, phía ngoài dành cho nam giới, phía trong dành cho nữ giới.

Theo chiều dọc, phía trên là các cửa sổ (người Mường gọi là cửa voóng), chỗ ngồi gần cửa voóng thường dành cho người cao tuổi còn phía dưới dành cho lớp trẻ, và kèm theo một quy định khi ngồi không được quay lưng vào cửa voóng.

Một trong những khu vực rất quan trọng trong kết cấu nhà sàn của người Mường đó là gian bếp. Với người Mường, bếp được coi là linh hồn của cả ngôi nhà bởi đây không chỉ là nơi nấu lên những bữa ăn hàng ngày mà còn là không gian diễn ra mọi hoạt động sinh hoạt chung của cả gia đình.

Miếu thờ: Có diện tích 1,4 m2, khung bằng gỗ, mái lợp cỏ tranh, sàn bằng gỗ ván.

Hải Yến