Đồng bào dân tộc Chăm với những điệu múa dân gian truyền thống

(LVH) - Lễ hội, lễ tục Chăm là cái nôi chứa đựng kho tàng văn nghệ dân gian đặc sắc, trong đó múa là phần hồn không thể thiếu. Hầu như không có lễ hội nào của người Chăm lại thiếu đi những điệu múa dân gian đặc sắc hòa với tiếng trống gineng và tiếng kèn saranai.

Người Chăm quan niệm múa dân gian Chăm là sự giao thoa giữa thế giới hiện tại và thế giới siêu nhiên, giữa con người và thần linh. Con người gửi gắm trong những điệu múa ước nguyện về mưa thuận gió hòa, xóm làng bình an, sức khỏe để sống và phục vụ cho thế giới hiện tại và cúng tế Thần Yang.

Phụ nữ Chăm trong chiếc áo dài truyền thống thướt tha với điệu múa nhịp nhàng, uyển chuyển tại không gian Tháp Chăm, Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam 

Múa chim công:Theo quan niệm của người Chăm, chim công là biểu tượng của niềm vui, sự may mắn. Vì thế múa Biyen (chim công) luôn có trong các lễ hội, ngày vui của cộng đồng. Đây là điệu múa dân gian đặc sắc và tiêu biểu của nghệ thuật múa Chăm. Đạo cụ múa Biyen là những chiếc quạt, vì vậy người Chăm rất yêu quý chiếc quạt. Phụ nữ Chăm với đôi tay khéo léo cầm hai chiếc quạt khi như đôi cánh, khi như đôi chim. Chiếc quạt là tiếng nói tâm tình khi vui quạt vung lên, khi buồn quạt úp xuống, khi yêu thương quạt duyên dáng, khi nghĩa tình thì sóng đôi bay lượn.

Múa đội nước hay múa đội lu: Người Chăm gọi là Tamia dwa buk, Các cô gái đội trên đầu bình gốm (pụ) hoặc một cái khay (ka ya) đựng hoa quả hoặc bộ ấm chén bằng đất nung (hình ảnh dân tộc Chăm tại "Ngôi nhà chung")

Múa đội nước hay múa đội lu: Người Chăm gọi là Tamia dwa buk, Các cô gái đội trên đầu bình gốm (pụ) hoặc một cái khay (ka ya) đựng hoa quả hoặc bộ ấm chén bằng đất nung. Trên khay có bình gốm hoặc ấm thường chứa nước lã hoặc nước chè xanh để dâng cúng thần linh hoặc mời khách quý. Từ những động tác thực tế trong sinh hoạt lao động ấy, người Chăm đã sáng tạo ra điệu múa "đội nước" (ndoa buk). Điệu múa đội nước là sự kết hợp khéo léo và tài tình giữa điệu múa Biyen (chim công) và công việc lao động hàng ngày mà ta luôn bắt gặp ở bất cứ nơi đâu trong các làng Chăm. Sự kết hợp đã làm cho những thiếu nữ Chăm trôngthướt tha, uyển chuyển như đàn chim công bay lượn. Điệu múa này trở thành nghi lễ đặc trưng của người Chăm trong việc tiếp đón khách quý.

Múa quạt trong ngày hội Kate mang đậm văn hóa Chăm

Múa khăn: Bên cạnh các điệu múa trên còn có điệu múa khăn với đạo cụ là chiếc khăn. Chiếc khăn tượng trưng cho tấm lòng trong trắng đáng yêu, hiền dịu của các thiếu nữ Chăm. Nếu các điệu múa của nữ uyển chuyển duyên dáng thì điệu múa của nam thể hiện sự mạnh mẽ, kiên cường trước mọi phong ba bão tố.

Múa đạp lửa tại không gian Làng dân tộc III, Khu các Làng dân tộc, LVH-DL các dân tộc Việt Nam 

Múa đạp lửa: Người Chăm có câu "đàn ông chinh chiến, đàn bà sinh nở" để nói lên sự mạnh mẽ, trung kiên của đàn ông trong việc bảo vệ xóm làng, quê hương. Trong đó múa đạp lửa là điệu múa phổ biến dành cho nam đã có từ lâu đời và xuất hiện trong lễ hội Rija Nagar - lễ hội xứ sở của người Chăm. Lửa là yếu tố tượng trưng cho khó khăn, hiểm nguy đang đến với con người, nghệ nhân múa nam tay cầm roi hay kiếm với động tác vừa múa vừa chiến đấu, vừa bảo vệ xóm làng thân thương và thể hiện sự quyết tâm vượt qua mọi khó khăn để đi đến chiến thắng. Múa Chăm tuy mô tả những công việc đơn giản hàng ngày, nhưng chứa đựng triết lí nhân sinh quan sâu sắc vì thế luôn tạo cho người xem một ấn tượng độc đáo, đưa mọi người du dương về vùng đất huyền thoại, linh thiêng mà sâu thẳm, nhân nghĩa với khát vọng sống mãnh liệt, lạc quan yêu đời của người Chăm. Múa nghi lễ cùng với hát khấn, tụng ca là loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian không thể thiếu vắng trong các lễ hội truyền thống của dân tộc Chăm. 

Những đạo cụ không thể thiếu được trong những lễ hội của đồng bào dân tộc Chăm (hình ảnh diễn ra tại Ngôi nhà chung"

Đây thực sự là những tinh hoa trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Chăm. Các vũ điệu dân gian đặc sắc này không chỉ diễn ra trên các đền tháp mà được các nghệ nhân dân tộc Chăm tái hiện trong các hội diễn sân khấu hóa, giao lưu văn hóa, ngày hội văn hóa dân tộc Chăm. Sau khi hết giãn cách xã hội “Ngôi nhà chung” nếu được mở cửa hoạt động trở lại đón khách, chúng ta có thể đến ngay Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc tộc Việt Nam (Đồng Mô - Sơn Tây - Hà Nội” để tìm hiểu nét văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc Chăm nói riêng và các dân tộc đang hoạt động và sinh sống hàng ngày tại “Làng” nói chung, để có thể thấy rõ hơn về văn hóa đặc sắc của từng vùng miền nước ta tới du khách.

Thúy Nga (TH)