Tái hiện nghi lễ “Đặt tên âm và lên đèn” trong “Lễ cấp sắc” của dân tộc Dao

(LVH) - Chiều ngày 20/4, đoàn nghệ nhân dân gian tỉnh Thanh Hóa đã tái hiện trích đoạn “Lễ đặt tên âm và lên đèn” trong “Lễ cấp sắc” của dân tộc Dao huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa tới đông đảo du khách tham quan. Đây là hoạt động trong khuôn khổ sự kiện "Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam" (19/4) năm 2024 tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội).

Treo tranh thờ chuẩn bị nghi lễ "đặt tên âm và lên đèn" trong lễ Cấp sắc của đồng bào Dao

Lễ cấp sắc là nghi lễ công nhận sự trưởng thành của người đàn ông dân tộc Dao. Cho đến nay, phong tục truyền thống độc đáo này vẫn được người dân tộc Dao ở xứ Thanh gìn giữ, phát huy; theo tiếng địa phương, cấp sắc được gọi là quá tang. Trong lễ cấp sắc, người thụ lễ được đặt pháp danh (tên âm). Sau khi trải qua nghi lễ này, người đàn ông dân tộc Dao được công nhận là con cháu Bàn Vương, được học làm thầy, được cấp âm binh và thờ cúng tổ tiên.

Thầy cúng làm lễ xin thần linh, thổ địa tổ chức lễ Cấp sắc

Để tiến hành nghi lễ cấp sắc cần có 7 thầy cúng. Trong đó, có một thầy chính (thầy cả). Thầy cả và thầy hai mặc áo thêu hình rồng màu đỏ với nhiều họa tiết trang trí cầu kỳ tiến hành các nghi lễ. Ngày cấp sắc do thầy cúng lựa chọn, phải là ngày đẹp và hợp với tuổi của người cấp sắc. Trong suốt thời gian tiến hành nghi lễ, người cấp sắc không được ra khỏi nhà, kiêng quan hệ vợ chồng, không nói tục, chửi bậy.

Thầy cúng làm lễ trình diện người chuẩn bị thụ lễ

Mâm cỗ trong lễ cấp sắc được sắp xếp khá đặc biệt theo lối ẩm thực truyền thống của người dân tộc Dao. Đồ cúng gồm: thịt lợn, thịt gà, bánh giầy, bị gạo, rượu, tiền đồng, bộ tranh Đại đường, vải trắng, thanh âm dương, dấu gỗ, đèn, nến, mũ, tranh đội đầu lúc múa, thuyền tượng trưng, áo choàng ngoài, hương, tiền ma, ghế ngồi cấp sắc, gậy thầy cúng, thanh kiếm, ấm rót nước cúng, hũ rượu...Trống, Chiêng, Kèn, chũm chọe, tù và, chuông đồng, thanh la.

 

Thầy cả thực hành nghi lễ xin tên âm cho người thụ lễ

Cùng với đó là có Thầy Cúng (3 thầy chính và 4 thầy phụ giúp việc), 1 người thụ lễ, Bố mẹ người thụ lễ, 03 người hát ví, 01 người thổi kèn, 01 người thổi tù và, 01 đánh trống, chiêng, Và các diễn viên quần chúng đóng họ tộc và khách mời….Từ sáng sớm tinh mơ, khi chuẩn bị đầy đủ các điều kiện vật chất cần thiết bố mẹ chàng trai đi mời thầy cúng đến để làm Lễ Cấp Sắc 7 đèn đánh dấu trưởng thành cho người con trai. Lúc này, tiếng trống, chiêng, kèn nổi lên tất cả hòa tấu thành một bản nhạc vang khắp thôn bản, xua đi những cái xấu, tà ma để rước thầy đến làm Lễ Cấp Sắc, gồm 1 thầy chính và các thầy phụ.

Người thụ lễ quỳ lạy trước đàn lễ để thực hiện nghi lễ lên đèn

Chuẩn bị vào lễ, thầy cúng thắp hương ở bàn thờ tổ, làm phép xua đuổi tà ma xấu để buổi lễ được diễn ra tốt đẹp. Trống, chiêng, chuông bắt đầu nổi lên, mùi hương nồng ấm lan tỏa khắp nhà, những bức tranh rực rỡ sắc màu mang lại vẻ uy nghi, đàn lễ tươm tất… đã tạo nên một không gian thiêng.

Lễ xin phép và trình diện; (Thầy cúng cầm que tre đi vòng quanh và đứng đằng sau người thụ lễ, tay cầm ít tiền giấy đưa đi đưa lại, rồi vứt tiền qua sau lưng và quay mặt ra cửa làm lại động tác này. Phần tiền còn lại thì đặt lên lưng người thụ lễ. Thầy vừa cúng vừa lấy hai tay bắt chéo trước đầu gối, ngửa ngược lòng bàn tay ra phía trước, cúi khom người nhảy lò cò một chân quanh người thụ lễ. Quá trình nhảy với tốc độ chậm, rồi thầy đứng sau người thụ lễ giơ hai tay lên phía đầu người ấy bắt quyết, làm phép tẩy rửa những gì không tốt. Thầy cúng phụ mang lọ nhang giao cho thầy để thầy đặt lên bàn thờ trước khi giao cho người thụ lễ. Tiếp đó, thầy cả thực hành nghi lễ xin tên âm cho người thụ lễ).

Thầy cúng làm Lễ Cấp Sắc 7 đèn đánh dấu trưởng thành cho người con trai

Lễ đặt tên âm và lên đèn; Thầy cúng đặt và viết tên thiêng của người chịu lễ lên bàn cúng để xin sự chứng nhận của các thần, thánh. Đây là lễ báo cáo với các thần linh, tổ tiên về việc đặt tên thứ hai (tên âm) cho người con trai trong dòng tộc được ghi vào gia phả. Khi qua đời, con cháu sẽ cúng giỗ theo tên âm, lễ vật gồm có gạo, tiền đồng, áo rồng và mũ của người thụ lễ, đạo sắc cho người thụ lễ, đèn, nến. Việc đầu tiên là thầy cả khấn và trao áo rồng, mũ cho người thụ lễ, người thụ lễ quỳ lạy trước đàn lễ và bàn thờ tổ tiên. (Vừa đọc, các thầy cúng vừa đi vòng quanh vị trí ngồi của người thụ lễ. Khi đi vòng quanh vị trí ngồi của người thụ lễ, 3 ông thầy làm động tác lắc chuông còn cha của người thụ lễ đi sau gõ 2 mảnh cháo. Sau khi đi hết một vòng, cả ba người cùng đi vòng ngược lại một vòng nữa. Sau đó, thầy cả chính thức đánh 2 mảnh cháo xin tên âm cho người thụ lễ. Tên này được chọn không trùng với tên của người trong họ).

 

Thầy cúng đặt và viết tên thiêng của người chịu lễ lên bàn cúng để xin sự chứng nhận của các thần thánh

Sau khi thầy cúng xin âm dương tìm sự đồng ý của tổ tiên và thần linh cho tên mà gia đình chọn, tiếp theo là lễ lên đèn. Người thụ lễ được soi sáng bằng 3 ngọn đèn và 7 ngọn đèn. Người thụ lễ ngồi trên ghế cúng, lúc này 3 trẻ trai không chung bàn thờ tổ với người thụ lễ, cầm 3 ngọn đèn đứng vòng quanh phía sau. Thầy cúng đọc bài cúng cấp 3 đèn xong, thì tiếp luôn cấp 7 đèn. Bảy bé trai đứng vòng quanh phía sau người thụ lễ cầm 7 ngọn đèn. 7 thầy cùng nhảy múa vòng quanh người thụ lễ. Thầy cả vừa múa vừa phép, thầy hai đọc các đạo sắc, những điều thề nguyện và điều răn dạy.

Các thầy múa và làm phép xung quanh người thụ lễ

Sau đó thầy cúng mời gia tiên, các đấng thần linh, Ngọc Hoàng xuống chứng giám). Mời gia tiên, thần thánh: 3 thầy cùng người thụ lễ múa chuông, tay cầm tranh tam thánh nhỏ để mời gia tiên, các thần và đặc biệt là Thánh Sư về dự lễ. Họ múa và thể hiện các động tác tượng trưng cho: Mời đến, mời ngồi, mời uống nước, uống rượu. Đàn cúng mời gia tiên ở trong nhà có: Gà luộc, rượu, nước. Đàn cúng thánh sư: Rượu, đậu phụ (ăn chay). Mời Ngọc Hoàng: Thầy cúng mặc áo thêu rồng ngồi trên chiếc cầu bắc trên sàn. Đàn lễ tâu Ngọc Hoàng gồm có: Cái mẹt có rải một lớp lúa hạt, trên để dấu ấn, sắc phong tờ sớ có ghi lai lịch người thụ lễ, tên của 7 ông thầy và tên bố mẹ đẻ. Ngoài ra còn có gạo muối và tiền giấy để riêng cạnh đàn lễ. Thầy cả đội đàn lễ và đọc lời cúng, thầy 2 cầm gậy cúng múa và thổi tù và, thầy 3 cầm cờ. Khi đó người thụ lễ cùng

Lễ truyền phép cho người thụ lễ; Bảy thầy làm phép, đi xung quanh chiếc thuyền tượng trưng để đưa người thụ lễ đi “tầm sư học đạo”. Người thụ lễ tay cầm chuông nhảy múa xung quanh “thuyền”, các thầy cúng ngồi quanh “thuyền” và một người làm phép. Tiếp đó người thụ lễ được đặt nằm lên “thuyền”, mặt che tranh Tam Thanh, tay và chân giữ tiền ma. Bảy thầy cầm gậy cúng, chuông… nhảy múa quanh “thuyền” trong tiếng trống, kèn. Họ đặt đạo sắc lên mặt người thụ lễ, rồi lần lượt từng thầy cúng bước qua người thụ lễ. Riêng thầy hai cầm kiếm xoay vòng trong 2 tay, vừa đi chậm vòng quanh người thụ lễ vừa niệm phép và cuối cùng làm động tác hà hơi tiếp sức cho người thụ lễ. Làm phép xong, bảy thầy đỡ người thụ lễ dậy, để ngồi ghế cạnh bàn thờ. Thuyền được cuộn lại, đem cất.

Sau phần lễ, mọi người đều hòa mình vào điệu múa chuông trong tiếng chiêng, trống, kèn rộn rã, tiếng những quả chuông lắc ở tay rất nhịp nhàng với tiết tấu dồn dập làm cho không khí vui nhộn cùng điệu múa tiễn đưa khỏe mạnh. 

Lễ cấp sắc là nghi lễ truyền thống độc đáo của đồng bào dân tộc Dao đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời người đàn ông dân tộc Dao. Sau khi được cấp sắc, họ được coi là người đàn ông trưởng thành, đủ thẩm quyền tham gia các công việc của cộng đồng, là người có tâm, đức, hiểu biết lẽ phải, hướng thiện trừ ác... Lễ cấp sắc có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào dân tộc Dao, giúp họ có thêm sức mạnh tinh thần vượt qua khó khăn trong cuộc sống, hướng tới điều tốt đẹp trong tương lai.

Thúy Nga